Hướng dẫn cách đánh số trang trong Word 2007-2010 từ trang bất kỳ đến số trang bất kỳ
Bước 1:
Click chuột trái đến số trang bạn cần đánh, ở đây mình lấy ví dụ là 1 bài khóa luận tốt nghiệp, số trang bắt đầu tính từ Chương 1
Bước 2:
Chọn Page Layout => Breaks => Next Page
Bước 3:
Sau khi tạo section ở bước 1, chọn tiếp insert => Page numbers => format page numbers => tại ô start at: chọn 1
Bước 4:
Như vậy quá trình tạo số trang và section đã hoàn thành, bây giờ bạn có thể đánh số trang bằng header, footer, page number thoải mả (ở đây mình chọn footer để đánh số trang)i:
Bước 5:
Định dạng lại số trang ở footer (nếu xuất hiện 2 section như trong hình vẽ có nghĩa bước 1 bạn đã làm đúng):
Bước 6:
Đây là 1 bước cực kỳ quan trọng, nó giúp bạn xóa liên kết giữa section 1 và 2 => đây là tiền đề để xóa trang không cần đánh
Bước 7:
Xóa những trang không cần đánh, cụ thể là các trang ở phía trên chương 1
Bước 8:
Đến đây là xong và bạn chỉ cần đóng footer
Bước 9:
Làm tường tự với những trang không cần đánh, ở đây là từ phần kết luận đến hết khóa luận tốt nghiệp
Lưu ý: cách này dùng để áp dụng xóa những header không muốn hiển thị từ số trang bất kỳ.
Cách xóa section, chọn chế độ xem darft, tìm dòng section break rồi xóa
Chúc các bạn thành công
Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012
Cách đánh trang tuỳ ý
Word problems and techniques
1) PROBLEM = "Settings you chose for the left and right margins, column spacing, or
paragraph indents are too large for the page width in some sections."
But I don't find that the left and right margins (.5"), column spacing
(normal), or paragraph indents (0") are too large. "
SOLUTION = Select the whole document. Go to Page layout tab > Page setup group > columns and click One (column
2) Thay đơn vị cm cho inch để căn chỉnh lề
Word options > Advanced > Display > Show measurements in units of .... > done
3) Hiện khung căn chỉnh lề
Word options > Advanced > Show document content > Show text boundaries > done
4) Xoá các trang trống
Đưa con trỏ đứng ở vị trí ngay sau ký tự cuối cùng của văn bản, rồi bấm Ctrl_Shift_End sau đó bấm thêm phím Delete để xoá phần thừa ở cuối văn bản.
SOLUTION = Select the whole document. Go to Page layout tab > Page setup group > columns and click One (column
2) Thay đơn vị cm cho inch để căn chỉnh lề
Word options > Advanced > Display > Show measurements in units of .... > done
3) Hiện khung căn chỉnh lề
Word options > Advanced > Show document content > Show text boundaries > done
4) Xoá các trang trống
Đưa con trỏ đứng ở vị trí ngay sau ký tự cuối cùng của văn bản, rồi bấm Ctrl_Shift_End sau đó bấm thêm phím Delete để xoá phần thừa ở cuối văn bản.
Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012
List of Vietnam banks
Danh sách ngân hàng tại Việt Nam
- 1 Các Ngân hàng chính sách (Nhà nước) (2)
- 2 Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam (1)
- 3 Ngân hàng thương mại (40)
- 4 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam (14)
- 5 Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam ()
Các Ngân hàng chính sách (Nhà nước)
STT Tên ngân hàng Vốn điều lệ
tỷ đồngTên giao dịch tiếng Anh,
tên viết tắtwebsite Cập nhật đến 1 Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam 15.000
[cần dẫn nguồn]Vietnam Bank for Social Policies
VBSPvbsp.org.vn 2 Ngân hàng Phát triển Việt Nam 10.000
[cần dẫn nguồn]The Vietnam Development Bank
VDBvdb.gov.vn Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam
STT Tên ngân hàng Vốn điều lệ
tỷ đồngTên giao dịch tiếng Anh, tên viết tắt website abc 1 Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương 1.112 CCF www.ccf.vn Ngân hàng thương mại
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
1 ANZ Việt Nam 3.000 Australia And Newzealand Bank http://www.anz.com/vietnam/vn/
2 Deutsche Bank Việt Nam 50,08 Deutsche Bank AG, Vietnam http://www.db.com/vietnam/
3 Ngân hàng Citibank Việt Nam 20 Citibank http://www.citibank.com.vn/
4 Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) 3.000 HSBC http://www.hsbc.com.vn
5 Standard Chartered 3.000 Standard Chartered Bank (Vietnam) Limited, Standard Chartered http://www.standardchartered.com/vn/vn/
6 Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Việt Nam 4.547,1 Shinhan Vietnam Bank Limited - SHBVN http://www.shinhan.com.vn/
7 Ngân hàng Hong Leong Việt Nam 3.000 Hong Leong Bank Vietnam Limited - HLBVN http://www.hlb.com.my/vn/Vietnam/
8 BIDC 30 BIDC 9 Crédit Agricole 45 Ca-CIB http://www.ca-cib.com/global-presence/vietnam.htm
10 Mizuho 267 11 Tokyo-Mitsubishi UFJ 145 12 Sumitomo Mitsui Bank 500 13 Ngân hàng Commonwealth Bank tại Việt Nam 28 http://www.commbank.com.vn/ 14 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia 28 BIDC http://www.bidc.com.kh/ Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam
Stt Tên ngân hàng Vốn điều lệ Tên giao dịch tiếng Anh, tên viết tắt Trang chủ 1 Ngân hàng Indovina 165 triệu USD
[cần dẫn nguồn]IVB http://www.indovinabank.com.vn/
2 Ngân hàng Việt - Nga 168,5 triệu USD
[cần dẫn nguồn]VRB http://www.vrbank.com.vn/
3 Ngân hàng ShinhanVina 7 triệu USD
[cần dẫn nguồn]SVB http://www.shinhanvina.com.vn/
4 VID Public Bank 62,5 triệu USD
[cần dẫn nguồn]VID PB http://www.vidpublicbank.com.vn/
5 Ngân hàng Việt - Thái 161 triệu USD
[cần dẫn nguồn]VSB http://vsb.com.vn/
6 Ngân hàng Việt - Lào 10 triệu USD
[cần dẫn nguồn]LVB http://www.lao-vietbank.com/
Habubank vs Sacombank
Sacombank và Habubank: So mặt "anh tài"
Thứ Hai, 27/02/2012, 10:4
Câu chuyện về việc Sacombank bị thâu tóm chưa kịp lắng xuống
thì thị trường tài chính lại nổi lên thông tin một ngân hàng
khác cũng đang bị gom cổ phiếu nhằm thâu tóm, đó là Habubank.
Liệu Habubank có cơ sở để trở thành một "Sacombank thứ hai"?
Cùng so sánh hai ngân hàng qua một số tiêu chí để có góc nhìn
khách quan.
Thời gian qua sự kiện Sacombank bị thâu tóm trở thành một sự
kiện nóng trên thị trường tài chính, đặc biệt là sau khi
Eximbank đã yêu cầu Sacombank thực hiện bầu lại Hội đồng quản
trị của mình. Trong thời gian sự việc Sacombank bị thâu tóm nổi
lên trên thị trường, cổ phiếu STB của ngân hàng này đã tăng
xấp xỉ 60%, một mức tăng rất hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư.
Và trong những phiên vừa qua, cổ phiếu HBB của Ngân hàng Thương
mại CP Nhà Hà Nội (Habubank) nổi lên với khối lượng dư mua trần
lớn, khối lượng khớp lệnh lên tới cả chục triệu cổ phiếu
mỗi phiên. Trên thị trường bắt đầu xuất hiện thông tin đồn đoán
về việc ngân hàng này có thể bị thâu tóm.
Vậy việc Habubank bị thâu tóm và có thể trở thành một
“Sacombank thứ hai” liệu có xảy ra? Hay đây chỉ là một cái bẫy
được tổ chức hoặc cá nhân nào đó tạo ra nhằm thoát hàng, khi
ngân hàng này đang trọng tình trạng sức khỏe yếu? Bài viết
này sẽ so sánh một số chỉ tiêu của Habubank và Sacombank để
nhà đầu tư có thể đưa ra nhận định, đánh giá riêng của mình
về vấn đề trên.
Các số liệu đều lấy từ bản Báo cáo tài chính hợp nhất Quý IV năm 2011 của hai ngân hàng.
Tổng Tài sản, Huy động vốn, Dư nợ cho vay
Có thể thấy quy mô về Tổng tài sản, dư nợ và huy động vốn
của Sacombank lớn hơn Habubank rất nhiều. Trong năm 2011, tăng
trường tín dụng của hai ngân hàng này đều âm, cụ thể Habubank
có tăng trưởng tín dụng âm 4,57%, Sacombank có tăng trưởng tín
dụng âm 2,36%. Về tăng trưởng huy động vốn (tiền gửi của khách
hàng) trong năm 2011 của Sacombank âm 4,1%, ngược lại Habubank có
tăng trưởng huy động vốn 16,5%.
Tới cuối năm 2011, Sacombank có hơn 19.523 tỷ đồng tiền và các
khoản tương đương tiền. Tại Habubank, con số này thấp hơn nhiều
với hơn 3.383 tỷ đồng tiền và tương đương tiền.
Nợ xấu, phân loại nợ theo kỳ hạn, tỷ lệ an toàn vốn
Tổng nợ xấu (Nợ nhóm 3,4,5) năm 2011 của Habubank là hơn 836 tỷ
đồng, trong khi đó con số này tại Sacombank là hơn 463 tỷ đồng.
Như vậy tỷ lệ nợ xấu của Habubank cao hơn Sacombank rất nhiều.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu cùa Habubank vẫn trong giới hạn cho phép
5%, tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu 4,69% của ngân hàng này cao hơn nhiều
so với các ngân hàng khác.
Hệ số an toàn vốn (CAR) của Sacombank trong năm 2011 là 11,66%,
cao hơn tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu 8%. Ngân hàng này được phân
nhóm tín dụng 1, được phép tăng trưởng tín dụng 17% trong năm
2012. Hệ số CAR của Habubank năm 2011 chưa có con số chính thức,
trong bản kế hoạch hoạt động ngân hàng này đặt ra chỉ tiêu cao
hơn 9,5%. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đánh giá năm 2011 ngân hàng
này có tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn mức 9,5% và sẽ thuộc vào
phân nhóm tín dụng 3 (được phép tăng trưởng tín dụng 8% trong
năm 2012) hoặc nhóm 4 (không được tăng trưởng tín dụng).
Cả hai ngân hàng này có dư nợ phân bổ tập trung vào dư nợ
ngắn hạn, tuy nhiên có sự chênh lệch về tỷ lệ. Cụ thể tỷ lệ
dư nợ ngắn hạn tại Sacombank là 62,05%, trong khi đó tại
Sacombank là 56,8%. Về tỷ lệ dư nợ dài hạn có sự chênh lệch
lớn khi tại Habubank có tỷ lệ dư nợ dài hạn lên tới 29,1%,
trong khi đó lượng tiền gửi vào các Ngân hàng trong thời gian
vừa qua chủ yếu ở kỳ hạn ngắn, đây là điểm yếu của Habubank,
có thể ảnh hưởng tới thanh khoản của ngân hàng này.
Lợi nhuận, doanh thu, ROE, ROA
|
Habubank
|
Sacombank
|
Lợi nhuận ròng năm 2011
|
262
|
1.996
|
Doanh thu năm 2011
|
5.803
|
17.864
|
ROE năm 2011
|
5,60%
|
13,72%
|
ROA năm 2011
|
0,63%
|
1,41%
|
Đơn vị: Tỷ đồng
Lợi nhuận năm 2011 của Habubank giảm mạnh so với năm 2010, khi
trong năm 2011 ngân hàng này chỉ đạt 262 tỷ đồng lợi nhuận sau
thuế, trong khi đó năm 2010 là hơn 476 tỷ đồng. Ngược lại, lợi
nhuận của Sacombank năm 2011 tăng so với năm 2010. Cụ thể năm 2011
ngân hàng này đạt 1.996 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, con số này
ở năm 2010 là hơn 1.871 tỷ đồng, tương đương với tăng hơn 125 tỷ
đồng.
Qua chỉ số ROE, ROA, một phần nào đó có thể nhận thấy hiệu
quả hoạt động của Habubank trong năm 2011 kém hơn Sacombank rất
nhiều khi hai chỉ số này của Sacombank cao gần 2,5 lần so với
Habubank. Năm 2010, ROA của Habubank là 1,25%, gần gấp đôi năm 2011.
Chỉ số ROE năm 2010 của Habubank là hơn 13,48%, cao hơn gấp 2 lần
năm 2011. Như vậy có thể thấy rằng hiệu quả kinh doanh của
Habubank trong năm 2011 đã giảm sút mạnh so với năm 2010.
Quy mô nhân sự, mạng lưới hoạt động
Một trong những yếu tố mà các tổ chức muốn thau tóm nhau đó
là quy mô mạng lưới hoạt động, thị trường hoạt động của đối
tượng muốn thâu tóm. Xét về vấn đề này, Habubank kém hơn
Sacombank rất nhiều.
|
Habubank
|
Sacombank
|
Nhân Viên
|
1.864
|
9.600
|
Điểm giao dịch
|
74
|
408
|
Tỉnh có chi nhánh
|
10
|
47
|
Máy ATM
|
53
|
751
|
Tất cả các chỉ số về nhân lực, mạng lưới của Sacombank đều
cao hơn Habubank rất nhiều. Đây cũng là yếu tố mà nhiều tổ
chức muốn thâu tóm Sacombank. Habubank thành lập năm 1989, trong
khi đó Sacombank thành lập sau 2 năm – vào năm 1991. Mặc dù thành
lập sau, nhưng với quy mô hiện tại có thể nhận thấy tốc độ
phát triển của Sacombank là rất nhanh. Hiện tại Sacombank có
mặt tại 47/63 tỉnh thành, Habubank khiêm tốn hơn khi chỉ có mặt
tại 10 tỉnh thành trên cả nước. Đặc biệt, Sacombank còn có chi
nhánh tại Lào và Campuchia.
Cổ phiếu
Thị giá ngày 24/02 của STB là 19.600 đồng/cổ phiếu. Với mức
giá này, vốn hóa của Sacombank trên thị trường chứng khoán là
gần 18.730 tỷ đồng. Ngoài 100 triệu cổ phiếu quỹ và lượng cổ
phiếu phát hành cho Nhân viên thì STB có hơn 955 triệu cổ phiếu
lưu hành ngoài thị trường.
Habubank có thị giá thấp nhất trong nhóm ngân hàng niêm yết khi
kết thức phiên giao dịch ngày 24/02, thị giá cổ phiếu HBB của
ngân hàng này là 5.200 đồng/cổ phiếu. Vốn hóa thị trường tương
ứng là 2.106 tỷ đồng, chỉ bằng 11,2% so với Sacombank. Nếu có
ý định thâu tóm, thì việc thâu tóm Habubank sẽ dễ dàng hơn
Sacombank do vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều. Lượng cổ
phiếu lưu hành ngoài thị trường của Habubank là 405 triệu cổ
phiếu.
|
Habubank
|
Sacombank
|
Thị giá (đồng/cổ phiếu)
|
5.200
|
19.600
|
Vốn hóa (tỷ đồng)
|
2.106
|
18.730
|
Lượng CP lưu hành (triệu)
|
405
|
Hơn 955
|
Tổng kết
Qua vài chỉ tiêu tài chính – chứng khoán cũng như mạng lưới
hoạt động của hai ngân hàng, có thể thấy mặc dù Sacombank có
giá trị thị trường lớn hơn, khó thâu tóm hơn nhưng ngân hàng
này hoạt động rất hiệu quả, đặc biệt ngân hàng này sở hữu
một mạng lưới hoạt động rộng khắp, lớn mạnh. Ngược lại, mặc
dù dễ thâu tóm hơn nhưng Habubank trong năm 2011 vừa qua hoạt động
rất kém hiệu quả. Hoạt động tín dụng của Habubank trong năm
2011 được đánh giá trong nhóm yếu kém với tỷ lệ nợ xấu cao,
tỷ lệ an toàn vốn thấp.
Theo nguồn tin đáng tin cậy, thì tin đồn về việc Vietinbank
(MCK:CTG) đang thâu tóm Habubank xuất hiện trên thị trường trong
thời gian gần đây là không đúng sự thật. Việc tin vào tin đồn
này có thể gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của nhà đầu tư khi bị
cuốn vào đà tăng nóng không có cơ sở của cổ phiếu này.
Duy Nguyễn
hệ số CAR
CAR: Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu (Capital Adequacy Ratio)
Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu là một thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng. Nó được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng.
CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%
Tỉ lệ này thường được dùng để bảo vệ những người
gửi tiền trước rủi ro của ngân hàng và tăng tính ổn định cũng như hiệu
quả của hệ thống tài chính toàn cầu. Bằng tỉ lệ này người ta có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng,
rủi ro vận hành.
Hay nói cách khác, khi ngân hàng đảm bảo được tỉ lệ
này tức là nó đã tự tạo ra một tấm đệm chống lại những cú sốc về tài
chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người gửi tiền.
Chính vì lý do trên, các nhà quản lý ngành ngân
hàng các nước luôn xác định rõ và giám sát các ngân hàng phải duy trì
một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, ở Việt Nam tỉ lệ này hiện đang là 8% (đã thay đổi lên Basel II),
giống như chuẩn mực Basel mà các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp
dụng phổ biến.
Khi tính toán tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, người ta
xét đến hai loại vốn: vốn cấp I(vốn nòng cốt) và vốn cấp II(vốn bổ
sung), trong đó vốn cấp I được coi là có độ tin cậy và an toàn cao hơn.
Ngoài yêu cầu đảm bảo cho CAR từ 8% trở nên, các ngân hàng còn phải đảm
bảo tổng vốn cấp II không được vượt quá 100% vốn cấp I.
(Source: Saga - 2007)
(Hệ số này thường nằm trong BCTC trong BC thường niên của các NHTM)
(2010: Quy định mới về tỷ lệ an toàn vốn: Tiệm cận chuẩn quốc tế: Nâng tỷ lệ an toàn vốn của TCTD thêm 1% là 9%: )link cụ thể)
(Kết luận về chuẩn Basel 3. Và dự kiến chuẩn mới sẽ áp dụng toàn cầu từ năm 2013. link cụ thể)
(Hệ số CAR theo 2 chuẩn mực khác nhau là VAS và IFRS: VAS là chuẩn mực kế toán Việt Nam, còn IFRS
là chuẩn mực kế toán quốc tế. Hiện nay có 2 loại
chuẩn mực về tỉ lệ an toàn vốn ở VN, đó là theo Basel I, CAR tối thiểu
bằng 8% và theo Basel II là 12%.)
(Basel cũng từng bị chỉ trích vì góp phần trong khủng hoảng tài chính năm 2007)
Vốn cấp một/vốn nòng cốt (Tier 1 capital/core capital)
Vốn cấp 1 là thước đo chủ yếu đánh giá sức mạnh, tiềm lực tài chính của một ngân hàng từ quan điểm của cơ quan quản lý, được định nghĩa trong Basel.
Vốn cấp 1 bao gồm các loại nguồn lực tài chính có độ tin cậy cao nhất và có tính thanh khoản tốt nhất, ở chủ yếu đề cập đến vốn cổ đông. Các ví dụ về vốn cấp 1 có thể kể đến: cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi không hoàn lại và không tích luỹ, lợi nhuận giữ lại. Theo nghĩa này, vốn cấp 1 không hoàn toàn giống nhưng có liên quan mật thiết đến khái niệm vốn cổ đông, đây là phần chính nhưng không phải tất cả vốn cấp 1.
Khái niệm chung là như vậy, tuy nhiên cơ quan quản lý hệ thống ngân hàng mỗi nước, tuỳ theo ý mình lại có những qui định cụ thể riêng về những công cụ tài chính cụ thể nào có thể được tính vào vốn cấp 1. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi mà khung pháp lý ở mỗi hệ thống pháp luật lại khác nhau đôi chút.
Ở Việt Nam, theo Quyết Định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống Đốc NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, vốn cấp 1 về cơ bản gồm (i) vốn điều lệ, (ii) lợi nhuận không chia và (iii) các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển.
Về mặt lý thuyết, nguyên nhân để dự trữ vốn là nó giúp các ngân hàng phòng vệ trước những rủi ro ngoài dự kiến. Khác với rủi ro ngoài dự kiến, rủi ro lường trước được thường đã có một phần trích riêng để phòng ngừa.
Cụ thể hơn, vốn cấp 1 là một trong những thước đo tỉ lệ đủ vốn của Ngân hàng, đó là tỉ lệ giữa vốn nòng cốt của ngân hàng với tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro. Tài sản điều chỉnh rủi ro là tổng tất cả các tài sản do ngân hàng nắm giữ được tính toán theo trọng số đối với rủi ro tín dụng theo một công thức do cơ quan quản lý (thường là Ngân Hàng Trung Ương) đưa ra. Hầu hết các ngân hàng Trung ương đều theo chuẩn BIS - Ngân hàng thanh toán quốc tế - để đặt ra những trọng số này. Các tài sản như tiền mặt, tiền xu thường có trọng số rủi ro là 0, trong khi các khoản vay không có bảo đảm có trọng số 100%.
Tỉ lệ an toàn vốn cấp 1 được tính theo công thức:
Vốn cấp 1 / Tổng tài sản điều chỉnh rủi ro
Vốn cấp hai (Tier 2 capital/Supplementary capital)
Vốn cấp 2 là thước đo tiềm lực tài chính
của một ngân hàng liên quan đến các dạng nguồn lực tài chính có độ tin
cậy ở hàng thứ hai (sau vốn cấp 1), xét từ quan điểm của cơ quan quản lý
ngành ngân hàng. Các dạng nguồn lực tài chính này được tiêu chuẩn hóa
rất rõ ràng trong Basel I và không có gì thay đổi trong Basel II.
So với vốn cấp 1, vốn cấp 2 được coi là có độ tin cậy, an toàn thấp hơn. Cơ quan quản lý của hầu hết các quốc gia, kể cả ban thống đốc của FED, đều áp dụng tiêu chuẩn về vốn này trong hệ thống pháp lý của mình.
Có một vài cách phân loại vốn cấp 2, nếu theo chuẩn Basel I, vốn cấp 2 bao gồm: lợi nhuận chưa công bố, giá trị tài sản đánh giá lại, các khoản dự phòng rủi ro chung và các công cụ lai giữa nợ và vốn, và các khoản nợ thứ cấp. Với cách phân loại này, trái phiếu chuyển đổi cũng được xếp vào vốn cấp 2 vì nó chính là một dạng công cụ tài chính lai giữa cổ phiếu và trái phiếu.
Tuy có vai trò và độ tin cậy thấp hơn vốn cấp 1, song vốn cấp 2 là một trong hai thành tố quan trọng để đánh gia mức độ an toàn vốn của một ngân hàng.
BASEL II và các yêu cầu quản lý rủi ro
Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng
vào thập kỷ 80, một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát
của 10 nước phát triển (G10) đã tập hợp tại thành phố Basel, Thụy Sĩ vào
năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng này. Sau khi nhóm họp, các cơ quan
này đã quyết định hình thành Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel
Committee on Banking supervision), đưa ra các nguyên tắc chung để quản
lý hoạt động của các ngân hàng quốc tế.
Năm 1988, Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Mục đích của Basel I nhằm:
- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại:
Vốn loại 1 (vốn cơ bản): Vốn loại 1 bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.
Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): Vốn cấp 2 bao gồm tất cả các vốn khác như các khoản lợi nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các khoản cho thuê). Tuy nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao gồm trong định nghĩa về vốn này. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó.
Tỷ lệ vốn tối thiểu = (Tổng vốn/tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro) > 8%
Chúng ta hãy xem xét các bước tính dưới đây để hiểu hơn về tài sản điều chỉnh theo rủi ro và yêu cầu về vốn theo Basel I. Bảng 1 chỉ ra các hạng mục đã được định trước về mức độ nhạy cảm với rủi ro trên bảng cân đối kế toán, như là độ nhạy cảm với các sự kiện ngoài dự kiến gây ra tổn thất, được tính theo 4 loại trọng số rủi ro (0%, 20%, 50% và 100%).
Theo bảng 1, nếu một khoản vay không được bảo đảm trị giá 1.000 USD của một tổ chức không phải ngân hàng sẽ có trọng số rủi ro là 100%. Tài sản được điều chỉnh theo trọng số rủi ro lúc đó sẽ được tính bằng 1.000USDx100% = 1.000USD.
Do vậy, mức vốn yêu cầu tối thiểu phải đạt 8% tài sản được tính theo trọng số rủi ro sẽ là 80USD (8% x 1.000USD = 80USD). Nói cách khác, tổng vốn một ngân hàng phải nắm giữ cho khoản vay không được bảo đảm này sẽ là 80USD.
Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho ra những yêu cầu về vốn khác nhau như bảng 2.
Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có tính đến rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
+ Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
+ Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
+ Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
+ Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro./.
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Năm 1988, Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Mục đích của Basel I nhằm:
- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại:
Vốn loại 1 (vốn cơ bản): Vốn loại 1 bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.
Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): Vốn cấp 2 bao gồm tất cả các vốn khác như các khoản lợi nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các khoản cho thuê). Tuy nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao gồm trong định nghĩa về vốn này. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó.
Tỷ lệ vốn tối thiểu = (Tổng vốn/tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro) > 8%
Chúng ta hãy xem xét các bước tính dưới đây để hiểu hơn về tài sản điều chỉnh theo rủi ro và yêu cầu về vốn theo Basel I. Bảng 1 chỉ ra các hạng mục đã được định trước về mức độ nhạy cảm với rủi ro trên bảng cân đối kế toán, như là độ nhạy cảm với các sự kiện ngoài dự kiến gây ra tổn thất, được tính theo 4 loại trọng số rủi ro (0%, 20%, 50% và 100%).
Theo bảng 1, nếu một khoản vay không được bảo đảm trị giá 1.000 USD của một tổ chức không phải ngân hàng sẽ có trọng số rủi ro là 100%. Tài sản được điều chỉnh theo trọng số rủi ro lúc đó sẽ được tính bằng 1.000USDx100% = 1.000USD.
Do vậy, mức vốn yêu cầu tối thiểu phải đạt 8% tài sản được tính theo trọng số rủi ro sẽ là 80USD (8% x 1.000USD = 80USD). Nói cách khác, tổng vốn một ngân hàng phải nắm giữ cho khoản vay không được bảo đảm này sẽ là 80USD.
Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho ra những yêu cầu về vốn khác nhau như bảng 2.
Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có tính đến rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
+ Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
+ Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
+ Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
+ Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro./.
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro | Phân loại tài sản |
0% | Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng. Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính. |
20% | Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước |
50% | Các khoản vay thế chấp nhà ở,… |
100% | Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất động sản,… |
Bảng 2.
Loại tài sản | Trọng số rủi ro | Tỷ lệ vốn | Số tiền | Tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro | Yêu cầu về vốn tối thiểu |
Trái phiếu Chính phủ | 0% | 8% | 1.000 USD | 0 USD | 0 USD |
Trái phiếu đô thị | 20% | 8% | 1.000 USD | 200 USD | 16 USD |
Thế chấp nhà ở | 50% | 8% | 1.000 USD | 500 USD | 40 USD |
Vay không bảo đảm | 100% | 8% | 1.000 USD | 1.000 USD | 80 USD |
ThS. Vũ Thị Ngọc Liên
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)