Một số chỉ số kinh tế quan trọng được các nhà đầu tư trên thị trường theo dõi sát sao: PMI, PPI, yield curve, ECI, CCI
PMI
Chỉ
số quản lý mua hàng PMI (Purchasing Managers Index) phản ánh sức khỏe
của khu vực sản xuất. Chỉ số này được tính bằng tỷ lệ phần trăm số nhà
quản lý phụ trách việc mua hàng cho rằng tình hình kinh doanh tháng này
tốt hơn tháng trước.Dữ liệu phân tích PMI được thu thập qua một cuộc
khảo sát 400 nhà quản lý phụ trách việc mua hàng thuộc khu vực sản xuất
về 5 yếu tố với trọng số cho từng yếu tố khác nhau: sản lượng (25%), số
đơn đặt hàng mới (30%), tốc độ giao hàng của nhà cung cấp (15%), hàng
tồn kho (10%) và tình trạng việc làm (20%).
thị
trường chứng khoán luôn có biến động mạnh nếu PMI được công bố không
đúng như dự đoán của nhà đầu tư. PMI có khoảng dao động từ 0-100 (%),
trong đó, mốc 50 điểm là ranh giới giữa sự thu hẹp và mở rộng sản xuất.
Tại Mỹ, PMI được Viện quản lý nguồn cung ISM công
bố thường kỳ vào 10h sáng (giờ miền Đông) ngày làm việc đầu tiên mỗi
tháng. Từ tháng 10/2003, JPMorgan cho ra đời chỉ số PMI toàn cầu theo
kết quả cuộc khảo sát 7600 giám đốc mua hàng từ 26 quốc gia, chiếm 83%
GDP toàn cầu. Kể từ tháng 8, PMI toàn cầu đã vượt mốc 50, cho thấy kinh
tế thế giới đang trên đà hồi phục.
PPI
Việt
Nam hiện đang đo mức độ lạm phát dựa trên chỉ số CPI, ngoài ra, một số
nước trên thế giới còn đang sử dụng một chỉ số quan trọng không kém, đó
là Chỉ số giá sản xuất PPI (Producer Price Index).
Khác
với CPI chỉ tính tới giá cả hàng hóa dịch vụ tới tay người tiêu dùng,
PPI lại phản ánh biến động giá cả hàng hóa đầu vào của nhà sản xuất nội
địa.
PPI
tăng gây áp lực tăng giá sản phẩm đầu ra cho doanh nghiệp nên chỉ số
này phần nào cũng báo hiệu trước lạm phát có thể xảy ra. Tuy vậy, doanh
nghiệp cũng có thể chọn giải pháp giảm lợi nhuận và giữ nguyên giá bán.
Do đó, PPI không phản ánh tình hình lạm phát chính xác như CPI. Cục
thống kê lao động Mỹ thu thập giá cả của trên 100.000 mặt hàng để tính
ra chỉ số PPI và công bố lúc 8h30 giờ miền Đông vào tuần thứ hai hoặc ba mỗi tháng.
Đường cong lợi suất
Đường
cong lợi suất (yield curve) thể hiện mối quan hệ giữa lợi suất và thời
gian đáo hạn của các loại chứng khoán nợ có xếp hạng tín dụng bằng nhau.
Thông thường, thời gian đáo hạn càng dài thì lợi suất càng cao để bù
đắp lại rủi ro cho nhà đầu tư (đường cong lợi suất chuẩn hay lồi). Tuy
vậy, trong một số trường hợp đặc biệt, đường cong này còn có hai hình
dạng đặc biệt khác.
Khi
nhà đầu tư có các phán đoán trái ngược nhau về diễn biến tiếp theo của
thị trường, lợi suất cả ngắn và dài hạn đều không thể hiện xu hướng biến
động rõ ràng tạo nên một đường lợi suất phẳng.
Đường
lợi suất phẳng báo hiệu nền kinh tế sắp có biến chuyển lớn, có thể từ
suy thoái sang tăng trưởng hoặc ngược lại. Đường cong có dạng lõm chỉ
xuất hiện khi nền kinh tế sắp rơi vào suy thoái, theo đó vay nợ càng dài
lợi suất càng giảm.
Lý
do là các doanh nghiệp trong ngắn hạn đang rất “khát vốn”, do đó họ
chấp nhận trả lãi suất cao để vay được tiền. Hiện đường cong lợi suất
thuộc dạng lồi, báo hiệu nền kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng.
Khi
nhà đầu tư có các phán đoán trái ngược nhau về diễn biến tiếp theo của
thị trường, lợi suất cả ngắn và dài hạn đều không thể hiện xu hướng biến
động rõ ràng tạo nên một đường lợi suất phẳng.
Hiện đường cong lợi suất thuộc dạng lồi, báo hiệu nền kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng.
(Theo Cẩm nang ngân hàng đầu tư – Mạc Quang Huy)
ECI
Đầu mỗi quý, Cục thống kê lao động Mỹ công bố Chỉ số chi phí việc làm ECI (Employment
Cost Index) dựa trên kết quả khảo sát bảng lương vào tháng cuối cùng
của quý trước đó. ECI đo lường sự biến động của lương thưởng trên một
giờ lao động của nhân công qua các quý.
ECI
không chỉ tính đến khoản “lương cứng” của người lao động mà còn cả tiền
thưởng và các khoản phúc lợi khác như bảo hiểm thất nghiệp, chăm sóc y
tế… Tuy vậy, nó không tính tới các khoản làm thêm ngoài giờ.
Lương
thường tăng trước khi nhà sản xuất tăng giá sản phẩm. Do đó, nếu lương
tăng (hay ECI tăng) nghĩa là nền kinh tế đang có nguy cơ lạm phát. Vì
vậy, ECI ảnh hưởng trực tiếp mạnh tới thị trường chứng khoán, đặc biệt
là trái phiếu.
Cựu
Chủ tịch FED Alan Greespan từng nói: “Để hiểu được nền kinh tế Mỹ, nhất
thiết phải hiểu được chỉ số ECI. Nó đảm bảo tính chính xác cho số liệu
về chi phí lao động, để từ đó đưa ra chính sách kinh tế hay kế hoạch
kinh doanh.”
(Theo BLS, Investopedia)
CCI
Khác với các chỉ số trên đến từ cơ quan chính phủ, chỉ số niềm tin tiêu dùng CCI (Consumer
Confidence Index) do tổ chức phi lợi nhuận Conference Board công bố, đo
lường mức độ lạc quan của người tiêu dùng đối với nền kinh tế. CCI càng
cao, người tiêu dùng càng tin tưởng vào việc làm và thu nhập của mình,
vì thế, họ cũng dám chi tiêu hơn. Kết quả là nền kinh tế tăng trưởng nhờ
tiêu dùng tăng.
Tuy
vậy, quy mô điều tra của chỉ số này là khá nhỏ, chỉ khoảng 5.000 hộ gia
đình. Hơn nữa, kết quả điều tra lại phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến chủ
quan của người được hỏi. Ví dụ như giá dầu tăng từ 60 lên 70 đô la/thùng
có thể khiến người tiêu dùng có cảm giác lo ngại vì mình bị “nghèo đi”
nhưng thực tế, tiền mua xăng chỉ chiếm có 5% chi tiêu. Tuy không ảnh
hưởng mấy tới ví tiền, nhưng nó lại gây tác động xấu tới câu trả lời khi
thu thập số liệu cho CCI.
SOURCE: http://home.trithucvn.net/taichinh/680-mt-s-ch-s-kinh-t-quan-trng- [NICE WEB! xxx]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét